Trong khi đó, ở chiều ngược lại, giấc ngủ kém chất lượng, ngủ không đủ giấc cũng có thể làm tăng cân tạo thành một vòng lẩn quẩn.
Dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến ngưng thở khi ngủ, nhưng thống kê cho thấy ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) lại xuất hiện nhiều ở những người thừa cân hoặc béo phì.
Thừa cân tạo ra một lượng mỡ tích tụ quanh cổ, được gọi là mỡ họng. Lượng mỡ họng này có thể làm hẹp hoặc làm tắc nghẽn đường thở của một người trong lúc ngủ khi các cơ bao quanh cổ họng rơi vào trạng thái thư giãn. Lúc này không khí bị ép đi qua đường thở đã bị thu hẹp lại và tạo ra âm thanh là tiếng ngáy. Ngáy là triệu chứng chính của chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn.
Bên cạnh đó, vòng bụng tăng thêm do mỡ thừa có thể nén lồng ngực lại, làm giảm thể tích phổi. Điều này tiếp tục làm hơi thở nông và giảm lượng không khí vào phổi khiến đường hô hấp trên dễ bị xẹp lại khi ngủ. Nguy cơ mắc ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn cũng gia tăng ở những người có chỉ số khối cơ thể (BMI) tăng cao. Đây là chỉ số đo lượng mỡ trong cơ thể dựa trên chiều cao và cân nặng. Bình quân một người cứ tăng 10% cân nặng cơ thể thì nguy cơ mắc OSA tăng thêm 6 lần.
Ngoài ra, có nhiều nguyên nhân khác dẫn đến ngưng thở khi ngủ như amidan to, cổ to, cổ họng bị thu hẹp, các rối loạn nội tiết như tiểu đường hay bệnh về tuyến giáp, trào ngược axit, bệnh tim và phổi. Tuy nhiên, thưc tế có đến 60-90% người mắc OSA bị thừa cân.
Nhiều bằng chứng cho thấy thừa cân và OSA có mối quan hệ qua lại với nhau. Khi thiếu ngủ cơ thể sẽ giảm tiết ra Leptin (một loại hormone ức chế sự thèm ăn) và gia tăng Ghrelin (một loại hormone kích thích ăn uống) làm gia tăng nhu cầu ăn các thực phẩm giàu calo. Nhiều dữ liệu khác cũng chỉ ra rằng giấc ngủ không đầy đủ có thể dẫn tới ăn uống quá nhiều, béo phì.
Những người mắc OSA cũng có xu hướng dễ bị tăng cân hơn những người có cùng chỉ số BMI nhưng không mắc OSA. Một nghiên cứu cũng cho thấy những người mắc OSA cũng tăng cân nhiều hơn trong năm được chẩn đoán mắc OSA so với người không mắc.
Ngưng thở khi ngủ cũng làm cạn kiệt năng lượng cần thiết để duy trì cơ thể khỏe mạnh. Ngưng thở khi ngủ ban đêm khiến người mắc mệt mỏi vào ban ngày khiến họ ít nỗ lực thực hiện các hoạt động thể chất, thể dục thể thao hơn. Điều này còn đặc biệt khó khăn với những người béo phì khi họ thường xuyên bị khó thở và khó chịu ở ngực khi gắng sức. Tình trạng giảm các hoạt động thể chất ở người mắc ngưng thở khi ngủ, nếu không có một chế độ ăn uống phù hợp, sẽ làm họ tiếp tục tăng thêm cân.
Ngưng thở khi ngủ ảnh hưởng đến toàn hệ thống tim mạch theo nhiều cách. Mỗi khi hiện tượng ngưng thở diễn ra, nguồn cung oxy cho cơ thể bị sụt giảm, từ đó làm kích hoạt hệ thần kinh giao cảm. Đây là cơ chế mà cơ thể con người phản ứng trước các tình huống căng thẳng hoặc nguy hiểm.
Khi hệ thần kinh giao cảm được kích hoạt, huyết áp và nhịp tim đều tăng mạnh để đánh thức người ngủ thức dậy để mở lại đường thở, qua đó bổ sung lượng oxy cần thiết trở lại cho cơ thể. Hiện tượng này lặp lại nhiều lần trong đêm. Nồng độ oxy trong máu tăng – giảm liên tục về lâu dài có thể gây ra viêm dẫn đến xơ vữa động mạch, làm tăng nguy cơ bị đau tim, đột quỵ và huyết áp cao.
Ngưng thở khi ngủ cũng làm gia tăng nồng độ carbon dioxide và lượng đường trong máu, ngăn cản hệ thần kinh kiểm soát nhịp tim và lưu lượng máu, cũng như tăng nguy cơ kháng insulin và thay đổi dòng chảy của oxy và carbon dioxide. Do đó, ngưng thở khi ngủ có thể dẫn đến nhiều loại bệnh tật như:
Người mắc hội chứng giảm thông khí béo phì (Obesity Hypoventilation Syndrome- OHS) thường cũng đồng thời mắc ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn. Với người mắc OHS, sự thừa cân tạo áp lực lớn lên thành ngực và làm phổi bị nén lại, từ đó cản trở khả năng hít thở sâu và duy trì nhịp thở đều đặn. Có đến 90% người mắc OHS có các triệu chứng của OSA. Tuy nhiên không phải ai mắc OSA cũng có các triệu chứng của OHS.
Nguy cơ mắc OHS liên quan khá chặt chẽ với chỉ số khối cơ thể BMI, với tỷ lệ mắc OHS tăng 50% ở những người có BMI lớn hơn 50. Cũng giống như OSA, OHS cũng làm giảm nồng độ oxy và gia tăng nồng độ carbon dioxide trong máu, có thể dẫn đến suy tim, huyết áp cao. Người mắc cả OSA lẫn OHS đều có nguy cơ cao mắc các bệnh về tim mạch. Hơn thế nữa, người mắc OSA đồng thời với mắc OHS ở mức độ nghiêm trọng sẽ có nguy cơ tử vong cao hơn.
Sơ đồ minh họa đường thở trên bị xẹp hoặc tắc nghẽn trong chứng ngưng thở khi ngủ
Giảm cân sẽ giúp giảm lượng mỡ tích tụ quanh cổ và lưỡi, giúp mở rộng đường thở tốt hơn. Giảm cân cũng sẽ giúp làm giảm mỡ bụng, tăng thể tích phổi, cải thiện lực thở và hạn chế khả năng đường thở bị xẹp xuống trong khi ngủ.
Giảm cân cũng làm giảm các triệu chứng như buồn ngủ vào ban ngày. Ngoài ra nó cũng giúp làm giảm sự cáu gắt và các rối loạn chức năng thần kinh, cải thiện sức khỏe tim mạch, huyết áp, tình trạng kháng insulin, tiểu đường loại 2 và cải thiện chất lượng sống.
Khi giảm từ 10-15% cân nặng có thể giúp làm nhẹ đi bệnh tình đến 50% ở những người mắc OSA ở mức trung bình. Tuy nhiên, giảm cân vẫn không thể giúp chữa dứt điểm các triệu chứng của ngưng thở khi ngủ nói chung. Bệnh nhân cần áp dụng thêm đồng thời một số phương pháp điều trị khác.
Nhiều bằng chứng cho thấy người mắc ngưng thở khi ngủ khi được điều trị tốt sẽ giúp giảm cân hiệu quả. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, hormone Ghrelin (kích thích ăn uống) được tiết ra nhiều hơn ở người mắc OSA so với người không mắc. Tuy nhiên, sau 2 ngày sử dụng máy hỗ trợ hô hấp CPAP, lượng Ghrelin tiết ra ở người mắc OSA đã tụt xuống mức gần tương đương người không mắc.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã ghi nhận nhiều trường hợp khi điều trị ngưng thở khi ngủ bằng máy CPAP trong dài hạn lại có thể làm tăng cân. Do vậy, không nên chỉ sử dụng máy CPAP hoặc một phương pháp điều trị ngưng thở khi ngủ nào đó làm cách duy nhất để giảm cân.
Nguồn bài viết