Người mắc chứng ngưng thở khi ngủ sẽ bị giảm hoặc ngưng thở hoàn toàn trong một khoảng thời gian ngắn trong khi ngủ. Hiện tượng này diễn ra lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt thời gian ngủ. Khi đó, não sẽ xuất hiện các vi thức hoặc thức để đánh thức người bệnh thức tỉnh để thở bình thường trở lại.
Dù bị đánh thức nhiều lần, nhưng người mắc thường không tỉnh dậy hoàn toàn, cũng như không ý thức được hơi thở bất thường của mình trong quá trình ngủ. Hệ quả là giấc ngủ bị gián đoạn, không ngủ sâu và chất lượng giấc ngủ kém.
Ngưng thở khi ngủ là một dạng của hội chứng rối loạn hô hấp liên quan đến giấc ngủ, với triệu chứng thường gặp là ngáy to khi ngủ và buồn ngủ quá mức vào ban ngày. Ngưng thở khi ngủ có 2 dạng chính là ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (Obstructive sleep apnea - OSA) và ngưng thở khi ngủ trung ương (Central sleep apnea - CSA). Nhiều hệ quả đi kèm chứng ngưng thở khi ngủ sẽ tác động tiêu cực lên sức khỏe người mắc nếu không được điều trị thỏa đáng.
Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn diễn ra khi đường thở bị hẹp hoặc bị tắc nghẽn hoàn toàn, làm giảm hoặc gián đoạn luồng không khí đi qua mũi họng để vào phổi. Nguyên nhân được cho là khi người mắc OSA ngủ, các cơ bao quanh cổ họng (thông thường sẽ được giữ để mở rộng đường thở) lúc này cũng “ngủ” theo hay nói cách khác trương lực cơ vùng hâù họng bị giảm. Điều này có thể gây ra hiện tượng “ngáy” khi không khí bị ngăn cản lưu thông một cách tự nhiên qua đường thở.
Kết quả là người ngủ bị thiếu oxy dẫn đến thiếu oxy não và não phải phát tín hiệu khẩn cấp đánh thức người bệnh thức dậy nhiều lần để vận động các cơ cổ họng, qua đó giúp mở đường thở trở lại, thể hiện ở việc thở hổn hển hoặc hít thở sâu.
Đây là chứng rối loạn giấc ngủ phổ biến. Tại Mỹ thống kê cho thấy nó có tác động đến từ 10-30% người lớn. Nhiều trường hợp người mắc không biết và không được chẩn đoán để nhận ra mình đang mắc OSA.
Ngưng thở khi ngủ trung ương ít phổ biến hơn. Nguyên nhân là do sự “ngắt kết nối” thông tin tạm thời giữa trung tâm chỉ huy là bộ não và các cơ hô hấp làm hơi thở nông hơn hoặc bị ngưng thở tạm thời.
Tỷ lệ mắc CSA trong dân số thấp hơn OSA, ước tính có khoảng 1% dân số tại Mỹ mắc chứng CSA.
Triệu chứng của ngưng thở khi ngủ bao gồm các biểu hiện của việc hô hấp không bình thường vào ban đêm, và một số biểu hiện vào ban ngày bắt nguồn từ sự thiếu ngủ ban đêm.
Nhiều triệu chứng được nêu ở trên chính bản thân người mắc không thể tự nhận biết được mà phải nhờ đến sự giúp đỡ của người khác. Điển hình là triệu chứng hơi thở bất thường và tiếng ngáy thường được người ngủ cùng phát hiện.
Nhiều triệu chứng của OSA lại có thể đến từ nhiều vấn đề sức khỏe khác, do vậy không thể chỉ chẩn đoán OSA chỉ bằng những triệu chứng riêng lẻ.
Biểu đồ giấc ngủ bình thường và giấc ngủ bị gián đoạn do OSA
Hô hấp bất thường khi ngủ như hơi thở chậm lại, tăng lên nhanh hoặc ngưng thở tạm thời trong một khoảng ngắn.
Cũng giống như OSA, người mắc CSA cũng rất khó khăn để tự nhận biết các triệu chứng của mình, họ cần phải có ai đó giúp quan sát và nhận diện các triệu chứng của mình trong khi ngủ.
Với chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, các cơ bao quanh cổ họng được “thư giãn” khi ngủ làm đường thở bị thu hẹp hoặc đóng kín dẫn đến tình trạng thiếu oxy, từ đó gây ra sự thức giấc nhiều lần trong đêm để khôi phục lại đường thở.
Trong khi đó, chứng ngưng thở khi ngủ trung ương phát sinh do các trục trặc trong đường truyền thông tin giữa não và các cơ chịu trách nhiệm cho việc hô hấp. Não không nhận biết được mức độ carbon dioxide trong cơ thể, dẫn đến các nhịp thở chậm hơn hoặc nông hơn bình thường và lặp đi lặp lại nhiều lần.
Các yếu tố nguy cơ chính có thể dẫn đến chứng ngưng thở khi ngủ có liên quan đến độ tuổi, giới tính, cân nặng và một số đặc điểm giải phẫu của phần đầu và cổ.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn và một số yếu tố nguy cơ khác như sử dụng thuốc, chất kích thích, tiền sửa bệnh lý gia đình... Tuy nhiên, hiện vẫn cần thêm nhiều bằng chứng khoa học từ nhiều nghiên cứu tiếp theo để chứng minh sự tác động của các yếu tố này đến sự phát triển của OSA:
Béo phì, hút thuốc, sử dụng thức uống có cồn có thể dẫn đến nguy cơ mắc ngưng thở khi ngủ cao
Ngưng thở khi ngủ trung ương hầu hết thường là hệ quả từ một vấn đề sức khỏe khác như nhiễm trùng hay chấn thương ảnh hưởng đến não, các vấn đề tim mạch, đột quỵ, suy thận hoặc dư thừa hormone tăng trưởng. Ngoài ra một số yếu tố khác có thể tác động đến ngưng thở trung ương bao gồm:
Nguồn tham khảo: